Cuộc sống là một hành trình với muôn vàn thăng trầm, nơi mà không phải ai cũng may mắn có được một cuộc sống ấm no và hạnh phúc. Tại những vùng quê nghèo khó của Việt Nam, vẫn còn rất nhiều người đang từng ngày vật lộn với những khó khăn chồng chất. Họ là những cụ già neo đơn, những người lao động không còn sức lực, những gia đình phải chia lìa vì nghèo khó, và những em nhỏ lớn lên trong thiếu thốn và bệnh tật.
Những mảnh đời ấy đang cần lắm một tia sáng hy vọng, một bàn tay nâng đỡ để vượt qua những thử thách của cuộc sống. Hội Hồng Ân chúng tôi đã và đang nỗ lực để mang đến cho họ những niềm vui nhỏ nhoi, những niềm tin vào tương lai, nhưng chúng tôi không thể làm điều đó một mình. Chúng tôi cần sự chung tay, góp sức từ Quý Ân Nhân và Quý Mạnh Thường Quân, những người có trái tim tràn đầy tình yêu thương và lòng nhân ái.
Với mỗi sự đóng góp, Quý Vị không chỉ mang lại cho họ một chút vật cất mà còn trao tặng cho họ niềm hy vọng, niềm tin vào tình người và vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Mỗi phần quà, mỗi đồng tiền từ Quý Vị sẽ là nguồn động viên to lớn, giúp những người nghèo khổ ấy có thêm nghị lực để tiếp tục cuộc sống.
Chúng tôi tin rằng, với sự sẻ chia từ Quý Ân Nhân và Quý Mạnh Thường Quân, những mảnh đời cơ cực sẽ được sưởi ấm bởi tình người, và những con người tưởng chừng như mất đi mọi niềm tin sẽ lại tìm thấy ánh sáng của tình thương.
Dưới đây là một số người nghèo đang được giúp đỡ qua chương trình “Gạo Hồng Ân”.
Hồ Văn Lon (1937): Hai vợ chồng ông Lon có bốn con gái, tất cả đã ra riêng. Hiện tại, hai ông bà phải nuôi một cháu ngoại trong căn nhà tình thương. Cả hai đều mất sức lao động và mắc bệnh huyết áp cao, khiến cuộc sống trở nên vô cùng khó khăn và bất an.
Nguyễn Thị Lòng (1942): Bà Lòng đã mất chồng và có tám người con, tất cả đều đã đi làm xa. Hiện tại, bà sống một mình trong căn nhà tình thương. Bà già yếu, không còn khả năng lao động và phải đối mặt với sự cô đơn và thiếu thốn trong những ngày còn lại của cuộc đời.
Nguyễn Thị Như (1939): Bà Như đã mất chồng và có tám người con, tất cả đều đã đi làm xa. Hiện tại, bà sống cùng gia đình con trai, nhưng họ cũng gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc sống và có bốn cháu nhỏ cần chăm sóc. Bà sống trong một căn nhà xây, lợp tôn, nhưng sự nghèo khó và già yếu khiến bà không còn khả năng lao động và phải dựa vào sự giúp đỡ từ con cháu.
Phan Thị Pha (1949): Gia đình bà Pha mới theo đạo từ năm 2015, và chồng bà mới qua đời. Bà có một người con, nhưng người này không thể chăm lo cho mẹ. Hiện tại, bà sống một mình trong căn nhà do ân nhân xây dựng. Bà mất sức lao động và mắc nhiều bệnh tật, khiến cuộc sống trở nên vô cùng khó khăn và cô đơn.
Tranh Thị Phanh (1949): Bà Phanh có chồng nhưng không có con. Chồng bà đã bỏ đi xa và chỉ thỉnh thoảng mới về thăm. Hiện tại, bà sống một mình trong căn nhà tường xây, lợp tôn đang xuống cấp. Khi sức khỏe còn cho phép, bà đi lượm ve chai để kiếm sống qua ngày, nhưng cuộc sống của bà đầy khó khăn và cô đơn.
Tranh Thị Phiên (1954): Bà Phiên đã mất chồng và không có con. Hiện tại, bà sống một mình trong căn nhà nhỏ do xã xây dựng để thay thế căn nhà cũ ở bãi rác. Bà già yếu, đau khớp và cột sống, và phải lượm ve chai để kiếm sống qua ngày. Cuộc sống của bà là một chuỗi những khó khăn không ngừng, khi sức khỏe ngày càng suy yếu và sự cô đơn bủa vây.
Phạm Thị Đồng (1948): Bà Đồng đã mất chồng, và người em ở chung cũng đã qua đời. Bà có năm người con, hai người đã lập gia đình nhưng đều sống trong cảnh nghèo khó. Hiện tại, bà đang sống với cô gái út, người phải đi làm thuê nhưng công việc không ổn định. Bà già yếu, không thể tự làm để nuôi sống bản thân, và cuộc sống của bà phụ thuộc hoàn toàn vào sự giúp đỡ của con cháu và cộng đồng.
Nguyễn Thị Thái (1946): Bà Thái đã mất chồng và có năm người con, nhưng không ai có khả năng nuôi mẹ. Ngôi nhà bà đang ở do các cháu dựng lên, nhưng bà sống một mình, không có khả năng lao động và đang đối mặt với sự già yếu và mờ mắt. Cuộc sống của bà là chuỗi ngày dài đầy khó khăn và cô đơn, khi không có ai để nương tựa.
Nguyễn Thị Kim Thoa (1946): Bà Thoa không có người thân và không có nhà ở. Bà phải ở trọ trong một căn nhà của người khác đã bỏ đi làm xa. Bà không có sức khỏe và có dấu hiệu tâm thần, khiến cuộc sống của bà trở nên vô cùng khó khăn và cô đơn.
Lê Thị Ánh Tuyết (1943): Bà Tuyết đã mất chồng và có một người con gái đang đi làm xa nhà. Bà sống trong một căn nhà mái tôn lụp sụp và không còn sức lao động. Bà bị gãy chân và đi lại khó khăn, khiến cuộc sống của bà trở nên vô cùng bất an và thiếu thốn.
Hạng Xuân Thủy (1991): Anh Thủy bị bệnh thần kinh, và bố anh cũng không bình thường. Mẹ anh là lao động chính trong gia đình, phải làm thuê để kiếm sống. Anh có một chị gái đi làm xa, nhưng em trai anh có gia đình riêng cũng gặp khó khăn và không thể giúp đỡ gì. Cả gia đình sống trong một căn nhà tình thương, và cuộc sống của họ đầy rẫy những khó khăn và thiếu thốn.
Hạng Văn Sơn (1988): Anh Sơn có vợ và bốn người con. Vợ anh phải làm công nhân để nuôi sống gia đình, nhưng anh đã bị tai nạn lao động vào năm 2015, gãy cột sống và hai chân teo dần, mất khả năng lao động. Ngôi nhà anh ở do Cha xứ xin ân nhân giúp xây dựng, nhưng cuộc sống của họ vẫn luôn thiếu thốn và đầy khó khăn.
Châu Thị Nén (1943): Bà Nén đã mất chồng, và các con của bà đều nghèo khó. Hiện tại, bà sống với con trai, người bị vợ bỏ và cháu mới bị tai nạn giao thông, phải cưa mất một cánh tay. Bà không còn sức lao động và sống trong một căn nhà vách ván. Cuộc sống của bà là chuỗi ngày dài không biết đến ngày mai, với những khó khăn chồng chất và không có ai để nương tựa.
Nguyễn Văn Cạn (1968): Trước đây, anh Cạn làm thợ xây, còn vợ anh làm phụ hồ. Nhưng anh đã bị tai nạn xe và giờ không còn khả năng lao động. Vợ anh phải ở nhà chăm sóc anh, nên không thể đi làm. Gia đình họ không có đất và hiện đang phải ở trong một căn nhà thuê với giá 300 ngàn đồng mỗi tháng. Cuộc sống của họ vô cùng khó khăn, không biết phải làm sao để vượt qua những thử thách này.